Trung kỳ Trung Cổ Trung_Cổ

Bài chi tiết: Trung kỳ Trung cổ

Xã hội và đời sống kinh tế

Một bức tranh minh họa Pháp thời Trung Cổ về ba giai cấp trong xã hội: tăng lữ, hiệp sĩnông dân.[146] Mối quan hệ giữa các giai cấp này nằm trong khuôn khổ của chế độ phong kiếnchế độ trang viên.[147]

Trung kỳ Trung Đại chứng kiến một sự gia tăng dân số. Dân cư châu Âu tăng từ khoảng 35 triệu năm 1000 lên khoảng 80 triệu năm 1347, mặc dù nguyên nhân chính xác vẫn còn chưa rõ ràng: có thể là những kĩ thuật canh tác cải tiến, sự suy giảm của chiếm hữu nô lệ, một khí hậu ấm hơn hoặc nhờ không chịu những cuộc xâm lược.[148][149] Tới khoảng 90 phần trăm dân số châu Âu là nông dân sống ở nông thôn. Nhiều người không còn sống trong những nông trang biệt lập mà gia nhập vào những cộng đồng nhỏ, tức các trang viên hoặc làng.[149] Những nông dân này thường chịu lệ thuộc vào một lãnh chúa quý tộc về đất canh tác và các dịch vụ khác, trong một hệ thống gọi là chế độ trang viên. Tuy thế vẫn có một lượng nhỏ nông dân tự do trong suốt thời kỳ này và cả sau đó,[150] phân bố ở Nam Âu nhiều hơn là miền bắc. Việc phá rừng lấy đất canh tác, hoặc khuyến khích nông dân khẩn hoang cũng đóng góp vào sự gia tăng dân số.[151]

Các giai tầng khác của xã hội bao gồm quý tộc, tăng lữ và thị dân. Quý tộc, bao gồm giới quyền quý có tước hiệu và các hiệp sĩ đơn thuần, khai thác lợi ích từ các trang viên và nông dân, mặc dù thẳng thừng thì họ không sở hữu đất đai mà là được ban quyền thu lợi tức của đất đai từ trang viên hay các miền đất khác từ một chúa tể đứng trên họ, trong một hệ thống gọi là chế độ phong kiến. Trong thế kỉ 11 và 12, những miền đất này, tức những đất phong (hay thái ấp), trở thành có tính thừa kế, và ở nhiều vùng không còn có thể bị phân chia giữa những người thừa kế khác nhau của một gia trưởng như thời kì đầu Trung Cổ. Thay đó, hầu hết thái ấp và đất đai khác được truyền cho con trai cả của gia trưởng.[152] Sự thống trị của quý tộc được xây dựng trên quyền kiểm soát đất đai, tham gia vào quân đội như kỵ binh nặng, kiểm soát các lâu đài, và được miễn sưu thuế lao dịch. Các lâu đài, ban đầu bằng gỗ và về sau bằng đá, bắt đầu được xây dựng từ thế kỉ 9 và 10 để phòng bị với những rối loạn xã hội đương thời, cung cấp sự bảo vệ khỏi quân xâm lược cướp bóc cũng như cho phép các lãnh chúa phòng ngự địch thủ. Quyền kiểm soát lâu đài ít nhiều cho phép quý tộc thách thức vua hoặc các vị chúa tể khác.[153] Giới quý tộc có tính phân tầng; vua và các quý tộc bậc cao nhất kiểm soát lượng lớn bình dân và đất đai, cũng như các quý tộc phụ thuộc. Bên dưới đó, các quý tộc thấp hơn có ít đất đai và nông dân hơn. Thấp nhất là những hiệp sĩ; họ thu lợi tức nhưng không sở hữu đất đai và phải phục vụ quý tộc (phong quân) của họ.[154][chú thích 17]

Giới giáo sĩ (tăng lữ) chia thành hai loại: giáo sĩ triều, tức những người sống ở thế giới bên ngoài, và giáo sĩ dòng, tức những người sống theo luật lệ tu trì và thường là tu sĩ.[156] Trong suốt thời kì này giáo sĩ vẫn chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong dân chúng, thường dưới một phần trăm.[157] Hầu hết giáo sĩ dòng tu là từ thành viên giới quý tộc chọn đời sống tôn giáo, đây cũng là nguồn gốc xuất thân của giáo sĩ triều bậc trên; trong khi các thầy tu ở xứ đạo địa phương thường xuất thân từ nông dân.[158]

Thị dân có một vị trí ít nhiều khác biệt, vì họ không phù hợp vào sự phân chia ba giai cấp xã hội truyền thống gồm quý tộc, tăng lữ và nông dân. Trong thế kỉ 12 và 13, vai trò của thị dân tăng cường nhanh chóng nhờ các thị trấn đã có lớn lên cùng những trung tâm dân cư được thành lập.[159] Tuy vậy trong suốt thời Trung Cổ dân cư thành thị chắc chắn không bao giờ vượt quá được 10 phần trăm tổng dân số.[160]

Một minh họa thế kỉ 13 về một người Do Thái (đội mũ đặc trưng của họ) tranh cãi với một người Ki-tô

Người Do Thái cũng di cư khắp châu Âu trong thời kỳ này. Các cộng đồng được thành lập ở Đức và Anh trong các thế kỉ 11 và 12, nhưng người Do Thái Tây Ban Nha, định cư từ lâu dưới chính quyền Hồi giáo, nay chịu sự thống trị của người Ki-tô và chịu áp lực cải đạo.[71] Hầu hết người Do Thái bị giam cầm trong những thị trấn, bởi vì họ không được phép sở hữu đất đai hay được làm nông dân.[161][chú thích 18] Bên cạnh người Do Thái, cũng có những người không theo Ki-tô giáo khác ở nhiều nơi của châu Âu-người Slav đa thần ở Đông Âu và người Hồi giáo ở Nam Âu.[162]

Phụ nữ ở thời Trung Đại chính thức thì phụ thuộc vào một người đàn ông, có thể là cha, chồng hoặc một người họ hàng nam giới nào đó. Các góa phụ, những người thường có nhiều quyền hạn trên đời sống của chính mình hơn, vẫn bị giới hạn bởi luật lệ. Công việc của phụ nữ thường chỉ bao gồm cai quản gia đình và những nhiệm vụ liên quan tới việc trong nhà. Phụ nữ nông dân chịu trách nhiệm chăm sóc gia đình, nuôi dưỡng trẻ nhỏ, cũng như làm vườn và trông nom gia súc gần nhà. Họ có thể bổ sung cho thu nhập gia đình bằng việc quay sợi hoặc ủ rượu tại gia. Vào mùa thu hoạch, họ cũng tham gia phụ giúp đồng áng.[163] Phụ nữ trong giới thị dân bên cạnh việc gia đình cũng tham gia và buôn bán, nhưng loại buôn bán nào cho phép phụ nữ tham gia thì thay đổi theo từng quốc gia và từng thời kì.[164] Phụ nữ quý tộc đôi khi có thể đảm nhiệm việc cai quản cơ ngơi thái ấp trong khi nam giới vắng mặt, nhưng họ thường bị cấm tham gia vào sự vụ quân đội hoặc chính quyền. Vai trò duy nhất dành cho phụ nữ trong Giáo hội là , vì họ không thể trở thành linh mục.[163]

Trung Ý, Bắc Ý, và ở miền Vlaanderen, sự trỗi dậy của những thành thị đã tới một mức độ mà sự tự quản kích thích phát triển kinh tế và tạo nên một môi trường cho các loại hiệp hội thương mại mới. Các thành phố thương mại trên bờ biển Baltic đạt tới những thỏa thuận được biết tới như Liên minh Hanse, trong khi những cộng hòa hàng hải như Venezia, GenovaPisa mở rộng việc buôn bán của họ trong khắp Địa Trung Hải.[chú thích 19] Những hội chợ thương mại lớn thành lập và nở rộ ở miền bắc Pháp trong thời kì này, cho phép các thương nhân người Ý và Đức tới trao đổi với nhau và với thương nhân địa phương.[166] Trong cuối thế kỉ 13 các tuyến đường thủy và bộ tới Viễn Đông đã được khai phá, nhất là được mô tả trong cuốn Marco Polo phiêu lưu ký của nhà buôn Marco Polo (mất năm 1324).[167] Bên cạnh các cơ hội thương mại, các tiến bộ nông nghiệp và kĩ thuật khiến cho sản lượng thu hoạch gia tăng, đến lượt mình nó cho phép mạng lưới giao thương mở rộng.[168] Thương mại gia tăng đem lại những phương thức giao dịch tiền tệ mới, và tiền vàng một lần nữa được khai thác ở châu Âu, đầu tiên ở Ý và sau đó ở Pháp và các quốc gia khác. Các dạng hợp đồng thương mại mới xuất hiện, cho phép chia sẻ rủi ro giữa giới thương gia. Các phương pháp kế toán được cải tiến, một phần qua việc sử dụng vào sổ hai lần; các loại ngân phiếu cũng xuất hiện, cho phép tiền được chuyển phát dễ dàng hơn.[169]

Các cường quốc nổi lên

Bản đồ chính trị châu Âu và Địa Trung Hải năm 1190

Thời Trung Kỳ Trung Đại là chính là giai đoạn hình thành nhiều nhà nước phương Tây hiện đại. Các vị quân vương ở Pháp, Anh, và Tây Ban Nha củng cố quyền lực của họ, và lập nên những thể chế cai trị vững bền.[170] Các quốc gia mới như HungaryBa Lan, sau khi cải sang đạo Ki-tô, trở thành những cường quốc ở Trung Âu.[171] Chế độ giáo hoàng, gắn bó lâu dài với ý thức hệ về nền độc lập khỏi các vị vua thế tục, lần đầu tiên khẳng định tuyên bố thẩm quyền trần thế trên toàn bộ thế giới Ki-tô; nền Quân chủ Giáo hoàng đạt tới đỉnh điểm của nó vào đầu thế kỉ 13 dưới triều đại Giáo hoàng Innocent III (tại vị 1198-1216).[172] Các cuộc Thập tự chinh phương Bắc và sự xâm nhập của các vương quốc và quân đội Ki-tô vào các vùng trước đây theo đa thần ở miền Baltic và đông bắc Phần Lan đã dẫn tới sự cưỡng bức đồng hóa nhiều sắc dân bản địa vào văn hóa châu Âu.[173]

Trong thời kì đầu Trung Kỳ Trung Đại, triều đại Ottonen cai trị Đức nỗ lực tìm cách kiểm soát các vị công tước hùng mạnh nắm quyền ở các công quốc có nguồn gốc từ thời kỳ Di cư. Năm 1024, họ bị thay thế bởi triều đại Salien, nổi tiếng về xung đột với giáo hoàng dưới thời Hoàng đế Heinrich (cai trị 1084-1105) trên quyền bổ nhiệm giáo chức, trong một cuộc tranh chấp kéo dài thường gọi là Tranh cãi Tấn phong.[174] Những hậu duệ của Heinrich IV tiếp tục xung đột với giáo hoàng cũng như giới quý tộc trong nước. Một giai đoạn bất ổn diễn ra sau cái chết của Hoàng đế Heinrich V người không để lại người thừa kế nào, cho đến khi Friedrich Barbarossa (cai trị 1155-1190) nắm được ngai vàng.[175] Mặc dù ông cai trị đất nước một cách hiệu quả, các vấn đề cơ bản vẫn còn đó, và những vị vua sau ông vật lộn để giữ quyền lực cho tới thế kỉ 13.[176] Cháu nội của Barbarossa là Friedrich II (cai trị 1220-1250), người cũng được thừa kế ngai vàng Sicilia thông qua mẹ mình, liên tục đụng độ với giáo hoàng. Triều đình của ông nổi tiếng nhờ những học giả mà ông vời tới và bản thân ông thường bị cáo buộc là dị giáo.[177] Cùng lúc ông và những người kế vị chịu rất nhiều khó khăn, bao gồm sự xâm lược của người Mông Cổ vào châu Âu từ giữa thế kỉ 13. Người Mông Cổ đầu tiên tiêu diệt các công quốc Kievan Rus' và sau đó xâm lược Đông Âu vào những năm 1241, 1259, 1287.[178]

Dưới triều đại cai trị của nhà Capétien nước Pháp chậm chạp mở rộng quyền lực trung ương tới giới quý tộc, vươn ra khỏi Île-de-France để kiểm soát ngày càng nhiều phần vương quốc vào thế kỉ 11 và 12.[179] Họ đối mặt với một đối thủ hùng mạnh từ ngôi Công tước Normandie, mà dưới thời William Người chinh phục đã lên cầm quyền ở Anh năm 1066 và tạo ra một đế chế hai bên eo biển tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, trong suốt phần còn lại của thời Trung Cổ.[180][181] Những người Norman cũng định cư ở Sicilia và bắc Ý, khi Robert Guiscard (mất năm 1085) đổ bộ vào năm 1059 và lập nên một công quốc mà về sau trở thành Vương quốc Sicilia.[182] Dưới triều Angevin của Henry II (cai trị 1154-1189) và con trai ông là Richard Tim sư tử (cai trị 1189-1199), vương triều Anh cai trị phần lớn xứ Anh và nhiều vùng rộng lớn thuộc Pháp,[183][chú thích 20] mà gia tộc thu được thông qua đám cưới của Henry II với Eleanor của Aquitaine, người thừa kế phần lớn miền nam Pháp.[185][chú thích 21] Em trai của Richard là John Mất đất (cai trị 1199-1216) để mất Normandie và phần còn lại của tài sản gia tộc ở bắc Pháp năm 1204 vào tay vua Pháp Philippe II Augustus (cai trị 1180-1223). Điều này dẫn tới sự bất mãn của quý tộc, cộng thêm việc tăng thuế quá mức nhằm bù đắp cho những nỗ lực bất thành để tái chiếm Normandie cuối cùng khiến nhà vua phải chấp thuận Magna Carta (Đại Hiến chương), một thỏa ước xác nhận quyền và đặc quyền của nam công dân tự do trong toàn xứ Anh. Dưới triều Henry III (cai trị 1216-1272), con trai John, có thêm những sự nhượng bộ cho giới quý tộc, và quyền lực hoàng gia ngày càng suy giảm, trong khi một hình thức nghị viện của giới quý tộc manh nha hình thành.[186] Trái lại, các vị quân vương Pháp tiếp tục thu được lợi ích trong cuộc đấu tranh với quý tộc cát cứ trong cuối thế kỉ 12 và thế kỉ 13, thâu tóm nhiều miền lãnh thổ vào tầm kiểm soát của vương quyền và củng cố bộ máy hành chính trung ương.[187] Dưới thời Louis IX (cai trị 1226-1270), thanh thế hoàng gia Pháp đạt đỉnh cao mới khi Louis đóng vai trò như một người dàn xếp các sự vụ chính trị cho phần lớn châu Âu.[188][chú thích 22]

Ở miền Iberia, các nhà nước Ki-tô, trước đó bị giam hãm ở miền tây bắc bán đảo, bắt đầu đẩy lùi các nhà nước Hồi giáo ở phía nam, trong một thời kỳ được gọi là Reconquista.[190] Cho đến khoảng năm 1150, miền Bắc theo Ki-tô đã hợp lại thành 5 vương quốc chính là León, Castilla, Aragon, Navarra, và Bồ Đào Nha Miền nam Iberia vẫn nằm dưới quyền các tiểu vương Hồi giáo, ban đầu thuộc Khalifah Córdoba (khalifah là một đế quốc Hồi giáo), về sau tan rã (năm 1301) thành một loạt các tiểu quốc gọi là các taifa,[190] những người chiến đấu với người Ki-tô cho tới khi Khalifah Almohad tái lập nhà nước tập quyền trên toàn miền Nam Iberia và một phần Bắc Phi những năm 1170.[191] Các lực lượng Ki-tô lại thắng thế một lần nữa vào đầu những năm 1200, đạt đến đỉnh cao trong lần đánh chiếm thành Sevilla năm 1248.[192]

Các cuộc Thập tự chinh

Bài chi tiết: Thập tự chinhReconquista
Krak des Chevaliers được xây dựng trong các cuộc Thập tự chinh của các Hiệp sĩ Cứu tế.[193]

Trong thế kỉ 11, người Thổ Seljuk thâu tóm phần lớn Địa Trung Hải, chiếm Ba Tư những năm 1040, Armenia những năm 1060, và Jerusalem vào năm 1070. Năm 1071, quân Thổ đánh bại quân Byzantine tại Trận Manzikert và cầm tù Hoàng đế Byzantine Romanos IV Diogenes (cai trị 1068-1071). Người Thổ sau đó tự do xâm lược Tiểu Á, tung một đòn nguy hiểm vào Đế quốc Byzantine với việc chiếm phần lớn dân số và trung tâm kinh tế của nó. Mặc dù người Byzantine đoàn kết lại và khôi phục ít nhiều, họ không còn có thể tái chiếm Tiểu Á và thường xuyên trong thế phòng thủ. Người Thổ cũng có những khó khăn của mình, đánh mất Jerusalem vào tay nhà Fatima ở Ai Cập và trải qua một loạt các cuộc nội chiến.[194] Trong khi đó Byzantine lại phải đối đầu với một Bulgary đang hồi sinh và lan rộng khắp miền Balkan cuối thế kỉ 12 và thế kỉ 13.[195]

Các cuộc Thập tự chinh ban đầu nhằm để chiếm lại thánh địa Jerusalem từ tay Hồi giáo. Cuộc thập tự chinh thứ nhất do Giáo hoàng Urbanus II (tại vị 1088-1099) tuyên cáo khởi xướng tại Công đồng Clermont năm 1095 để đáp lại lời thỉnh cầu từ Hoàng đế Byzantine Alexios I Komnenos (cai trị 1081-1118) xin cứu viện chống lại quân Hồi giáo xâm lược. Urbanus hứa hẹn xá tội cho bất kỳ ai tham gia. Hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp xã hội được huy động trên khắp châu Âu và đã đánh chiếm Jerusalem thành công năm 1099.[196] Một đặc điểm của các cuộc thập tự chinh là các cuộc tàn sát nhằm vào người Do Thái địa phương thường diễn ra khi những người lính thập tự rời bỏ đất nước họ hành trình về phương Đông. Các cuộc tàn sát này đặc biệt đẫm máu trong cuộc thập tự chinh thứ nhất,[71] khi các cộng đồng Do Thái ở Cologne, MainzWorms bị hủy diệt, và những cộng đồng khác ở những thành phố dọc sông Seine và sông Rhine cũng gần như diệt vong.[197] Một sản phẩm tự nhiên khác của thập tự chinh là việc thành lập những dòng tu mới mang tính cách vũ trang, như Hiệp sĩ dòng Đền hay Hiệp sĩ Cứu tế[chú thích 23], trộn lẫn đời sống tu đạo với nghĩa vụ quân ngũ.[199]

Quân thập tự củng cố những miền đất chiếm được bằng cách lập nên các nhà nước mới. Trong thế kỉ 12 và 13, một loạt các cuộc tranh chấp xảy ra giữa những nhà nước này và các nước Hồi giáo xung quanh. Sự thỉnh cầu từ các quốc gia tới giáo hoàng dẫn tới những cuộc thập tự chinh về sau,[196] chẳng hạn như Cuộc thập tự chinh thứ ba, được triệu tập để nỗ lực giành lại Jerusalem vốn bị Saladin (mất năm 1193) chiếm năm 1187.[200] Năm 1203, dưới tác động của Cộng hòa Venezia, cuộc Thập tự chinh thứ tư bị phân tán khỏi mục tiêu ban đầu là Đất Thánh sang Constantinople (từ lâu là đối thủ thương mại của Venezia), chiếm đóng thành phố này năm 1204, lập nên Đế quốc Latin[201] và làm suy sụp Byzantine. Người Byzantine khôi phục được thành đô năm 1261, nhưng không bao giờ khôi phục lại được sức mạnh trước kia.[202] Tới năm 1291 tất cả các nhà nước của quân thập tự đều bị chiếm đóng hoặc bị đẩy lùi khỏi nội địa, mặc dù một vương quốc trên danh nghĩa là Vương quốc Jerusalem vẫn tồn tại trên đảo Síp thêm được ít năm sau đó.[203]

Các đời giáo hoàng cũng kêu gọi thập tự chinh hướng tới các miền dị giáo khác: ở Tây Ban Nha, ở bắc Pháp, và dọc theo bờ Baltic.[196] Thập tự chinh ở Tây Ban Nha hòa trộn với cuộc Reconquista diễn ra từ trước đó. Mặc dù những hiệp sĩ dòng Đền và dòng Cứu tế cũng tham gia vào thập tự chinh ở đây, người Tây Ban Nha cũng lập ra những dòng tu quân sự tương tự, mà phần lớn về sau nhập vào Dòng tu CalatravaDòng tu Santiago đầu thế kỉ 12.[204] Bắc Âu cũng từng nằm ngoài ảnh hưởng của Ki-tô giáo cho tới thế kỉ 11, và trở thành điếm đến thập tự chinh trong giai đoạn thế kỉ 12-thế kỉ 14, dẫn tới sự thành lập Hội Huynh đệ của thanh kiếm Livonia. Một dòng khác, Hiệp sĩ Teuton, ban đầu thành lập ở các nhà nước thập tự quân, từ 1225 tập trung phần lớn hoạt động của nó về Baltic và năm 1309 chuyển tổng hành dinh tới MarienburgPhổ.[205]

Đời sống trí thức

Một học giả trung đại đang tiến hành những phép đo chính xác trong một cuốn sách minh họa ở thế kỉ 14

Trong thế kỉ 11, những sự phát triển trong triết học và thần học dẫn tới những hoạt động trí thức gia tăng. Nổi bật khi đó là cuộc tranh luận giữa những người duy thực và những người duy danh về quan niệm "Phổ quát". Các luận văn triết học được kích thích nhờ sự tái khám phá tư tưởng Aristoteles với sự nhấn mạnh của triết gia cổ điển này về chủ nghĩa kinh nghiệmchủ nghĩa duy lý. Các học giả như Pierre Abélard (mất năm 1142) và Pierre Lombard (mất năm 1164) giới thiệu logic Aristoteles vào thần học. Cuối thế kỉ 11 và đầu thế kỉ 12 cũng chứng kiến nhiều trường học ở nhà thờ lớn mọc lên trên khắp châu Âu, báo hiệu sự dịch chuyển trung tâm giáo dục từ những trường dòng tu viện sang các nhà thờ lớn và thị trấn.[206] Các trường học này đến lượt nó dần thay thế bởi các trường đại học thành lập tại các thành phố chính ở châu Âu.[207] Triết học và thần học trộn lẫn nhau trong chủ nghĩa kinh viện, một nỗ lực của các học giả thế kỉ 12-13 nhằm hòa giải các văn bản có thẩm quyền, nhất là giữa Aristoteles và Kinh Thánh. Phong trào này thử áp dụng một cách tiếp cận hệ thống với chân lý và lý trí[208] và kết tinh trong tư tưởng của Thomas Aquinas (mất năm 1274), người viết cuốn Summa Theologica (Tổng luận Thần học).[209]

Tranh của Leighton mô tả một quý cô chúc phúc cho một hiệp sĩ chuẩn bị lâm trận

Đời sống cung đình ở hoàng gia và giới quý tộc chứng kiến sự phát triển của tinh thần hiệp sĩ và phong thái tình yêu cung đình. Văn hóa này được biểu hiện trong các ngôn ngữ thế tục hơn là Latin, và bao gồm những bài thơ, truyện kể, huyền thoại, và những bài hát dân dã được lan truyền bởi những nghệ sĩ hát rong (troubadour). Thông thường những câu truyện được viết thành những anh hùng ca (tiếng Pháp:chansons de geste) như Bài ca Roland hay Bài ca Hildebrand.[210] Lịch sử thế tục và tôn giáo cũng được biên soạn.[211] Geoffrey của Monmouth (mất khoảng 1155) biên soạn cuốn "Lịch sử các vị vua nước Anh", một tập hợp các truyện kể và huyền thoại về Vua Arthur.[212] Các công trình khác có tính lịch sử hơn, như "Những đại chiến công của Hoàng đế Friedrich" của Otto của Freising (mất năm 1158) chép về Friedrich Barbarossa, hay sách của William của Malmesbury (mất khoảng 1143) về các vị vua Anh.[211]

Nghiên cứu luật học tiến bộ trong thế kỉ 12. Cả luật thế tục và luật giáo hội được nghiên cứu trong thời Trung kỳ Trung Đại. Luật thế tục, tức luật Rôma, có những tiến bộ lớn lao nhờ sự khám phá ra Bộ Luật Dân sự của Byzantine ở thế kỉ 11, và tới năm 1100 luật Rôma đã được giảng ở Đại học Bologna. Điều này dẫn tới việc ghi chép và tiêu chuẩn hóa các bộ luật trên khắp châu Âu. Luật giáo hội cũng được nghiên cứu, và khoảng năm 1140 một linh mục tên là Gratian dạy ở Bologna viết nên tác phẩm mà về sau trở thành kinh điển của luật giáo hội Decretum Gratiani.[213]

Trong số những kết quả của ảnh hưởng Hy Lạp và Hồi giáo trong thời kỳ này của lịch sử châu Âu là sự thay thế số La Mã bằng hệ đếm có cơ số thập phân và sự phát minh ra đại số, cho phép toán học phát triển hơn. Hiểu biết về thiên văn học cũng được cải thiện với việc dịch Almagest của Ptolemaeus từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Latin vào cuối thế kỉ 12. Y học cũng được nghiên cứu, đặc biệt là ở Nam Ý, nơi y học Hồi giáo ảnh hưởng tới trường y ở Salerno.[214]

Kỹ thuật và quân sự

Chân dung Hồng y Hugh của Saint-Cher bởi Tommaso da Modena, 1352, minh họa đầu tiên về kính mắt[215]

Trong các thế kỉ 12 và 13, châu Âu chứng kiến sự phát triển kinh tế và cải tiến trong phương thức sản xuất. Các tiến bộ công nghệ quan trọng bao gồm sự phát minh ra cối xay gió, những chiếc đồng hồ cơ học đầu tiên, chưng cất rượu bia, và phổ biến việc sử dụng thước trắc tinh.[216] Kính mắt cầu lõm được phát minh khoảng năm 1286 bởi một thợ thủ công người Ý khuyết danh, có lẽ làm việc tại hoặc gần Pisa.[217]

Sự phát triển của chế độ quay vòng ba vụ trong trồng trọt[149][chú thích 24] gia tăng tận dụng đất đai từ nửa năm trong chế độ hai vụ trước kia lên hai phần ba thời gian trong năm, kéo theo đó là năng suất tăng lên.[218] Sự phát triển của cày kích thước lớn cho phép cày xới các loại đất đặc nặng hiệu quả hơn, bên cạnh sự phổ biến của vòng cổ ngựa, dẫn tới việc sử dụng ngựa kéo thay thế cho bò. Ngựa nhanh hơn bò và cần ít cỏ hơn, những yếu tố này tạo điều kiện thuận lợi cho chế độ ba vụ hình thành.[149]

Việc xây dựng những đại giáo đường và lâu đài giúp kỹ thuật xây dựng tiến bộ, dẫn tới sự phát triển của kiến trúc đá cỡ lớn. Các cấu trúc phụ thuộc bao gồm những tòa thị sảnh, căn hộ, cầu cống, kho thuế mới.[219] Nghề đóng tàu cũng được cải tiến với việc sử dụng sườn và ván thay vì hệ thống đục mộng từ thời Rôma cổ. Các cải tiến khác bao gồm việc sử dụng buồm tam giác và bánh lái đuôi, cả hai giúp tăng tốc độ tối đa của tàu.[220]

Quân sự chứng kiến một sự gia tăng bộ binh với những vai trò chuyên biệt. Cùng với kỵ binh nặng vẫn có vai trò chủ chốt, các đội quân thường có lính bắn nỏ bộ binh hoặc cưỡi ngựa, cũng như công binh và kỹ sư.[221] Nỏ đã xuất hiện từ hậu kỳ Cổ đại, ngày càng được ưa chuộng vì chiến tranh công thành trở thành trận thế phổ biến từ thế kỉ 10-11.[144][chú thích 25] Việc sử dụng nỏ ngày càng nhiều trong thế kỉ 12 và 13 dẫn tới việc sử dụng mũ giáp che mặt, áo giáp nặng, cũng như giáp sắt che cho ngựa chiến.[223] Thuốc súng đã xuất hiện ở châu Âu giữa thế kỉ 13, và ghi nhận lần đầu tiên được sử dụng trong chiến tranh là bởi người Anh trong cuộc chiến chống người Scotland năm 1304, mặc dù thuần túy là thuốc nổ chứ không phải vũ khí. Đại bác được sử dụng để công thành từ những năm 1320, và súng cầm tay được sử dụng ít nhất từ những năm 1360.[224]

Kiến trúc, nghệ thuật và âm nhạc

Nhà thờ Maria Lach kiểu kiến trúc Roman ở ĐứcMột lâu đài châu Âu theo kiến trúc thời Trung Cổ

Vào thế kỉ 10 sự thành lập các nhà thờ, tu viện dẫn tới sự phát triển của kiến trúc đá trau chuốt các dạng thức Rôma thế tục, được biết tới tên kiến trúc Roman (tiếng Pháp: Romanesque). Ở nhiều nơi, các công trình thời Rôma bị tháo dỡ đi lấy gạch, đá làm vật liệu xây dựng. Từ sự khởi đầu dè dặt thường được gọi là kiến trúc "Roman thứ nhất" ở miền Iberia, phong cách mô phỏng Rôma này nở rộ và lan tràn khắp châu Âu trong một dạng đồng nhất đáng ngạc nhiên. Ngay trước năm 1000 có một làn sóng ồ ạt xây dựng những nhà thờ đá trên khắp châu Âu.[225] Các công trình Roman đặc trưng bởi tường đá đồ sộ, các lối vào đỡ lấy các cung bán nguyệt, cửa sổ nhỏ, và, đặc biệt là ở Pháp, các mái vòm đá.[226] Cửa chính lớn với phù điêu tô màu là đặc điểm trung tâm của mặt tiền, đặc biệt là ở Pháp, và cá đầu cột thường chạm những cảnh minh họa động vật hoặc quái thú.[227] Theo sử gia nghệ thuật C. R. Dodwell, "hầu như mọi nhà thờ ở phương Tây đều được trang trí bằng tranh tường", nhưng chỉ còn một ít lưu lại tới nay.[228] Đồng thời với sự phát triển kiến trúc nhà thờ, các dạng lâu đài đặc trưng châu Âu cũng phát triển, và đóng vai trò quan trọng trong chiến trận và chính trị.[229]

Trong thời kỳ việc chế bản các sách kinh trang trí dần dần chuyển từ các tu viện sang tay các xưởng của dân chúng, vì thế theo Janetta "tới khoảng 1300 hầu hết các linh mục mua sách của họ ở cửa hàng",[230] và các cuốn kinh nhật tụng phát triển như một dạng sách cầu nguyện dành cho thường dân. Các đồ kim khí tiếp tục là dạng nghệ thuật được trân trọng nhất, với đồ đồng tráng men Limoges là một lựa chọn phổ biến và giá tương đối phải chăng cho các đồ vật như hòm thánh tích hay thánh giá.[231] Ở Ý các cách tân của CimabueDuccio, tiếp đó là bậc thầy thời kỳ TrecentoGiotto (mất năm 1337), phát triển vượt bậc độ tinh xảo và vị thế của tranh vẽ trên ván và tranh tường.[232] Sự thịnh vượng kinh tế trong thế kỉ 12 dẫn đến nhiều sản phẩm nghệ thuật thế tục hơn, nhiều đồ chạm ngà như con súc sắc, lược và một số tranh tôn giáo cỡ nhỏ còn tồn tại tới ngày nay.[233]

Đời sống giáo hội

Francis của Assisi, minh họa trong tranh của Bonaventura Berlinghieri năm 1235, đã lập nên Dòng Francis.[234]

Cải cách tu viện trở thành một vấn đề quan trọng trong thế kỉ 11, khi giới thượng lưu bắt đầu lo ngại rằng giới tu sĩ không trung thành với luật lệ gắn họ vào một đời sống tôn giáo nghiêm khắc. Tu viện Cluny, thành lập ở vùng Mâcon thuộc Pháp năm 909, đã khởi đầu Cải cách Cluny, một phong trào cải cách rộng lớn để đáp lại nỗi sợ trên.[235] Cluny nhanh chóng thiết lập danh tiếng về sự khổ hạnh và tính khắt khe. Nó tìm cách duy trì chất lượng đời sống tu hành bằng cách đặt chính mình dưới sự bảo trợ của giáo hoàng và bằng cách tự bầu tu viện trưởng mà không có can thiệp từ thường dân, do đó duy trì sự độc lập về kinh tế và chính trị đối với các lãnh chúa địa phương.[236]

Cải cách tu viện gợi hứng cho những thay đổi trong giáo hội triều. Các lý tưởng mà nó dựa trên được đưa tới chế độ giáo hoàng bởi Giáo hoàng Leo IX (tại vị 1049-1054), và cung cấp hệ tư tưởng về sự độc lập của giới tăng lữ dẫn tới Tranh cãi Tấn phong trong cuối thế kỉ 11. Tranh cãi này liên quan tới Giáo hoàng Gregorius VII (tại vị 1073-1085) và Hoàng đế Heinrich IV, bắt đầu tranh chấp về việc bổ nhiệm giám mục, sau chuyển thành một cuộc chiến về quan niệm tấn phong, hôn nhân tăng lữ, và mại thánh. Hoàng đế xem việc bảo trợ nhà thờ như một trong các chức trách của mình cũng như muốn duy trì quyền bổ nhiệm người ông ta muốn vào các vị trí giám mục trong lãnh địa của mình, còn giáo hoàng nhấn mạnh sự độc lập của nhà thờ khỏi các vị lãnh chúa thế tục. Những vấn đề này còn tiếp tục tồn tại ngay cả sau khi có sự nhượng bộ giữa hai bên năm 1122 với Giáo ước Worms. Tranh cãi này đại điện cho một giai đoạn đáng chú ý trong sự hình thành nền quân chủ giáo hoàng tách biệt và ngang hàng với chính quyền thế tục. Nó cũng có những hậu quả lâu dài tới việc ban quyền cho các hoàng thân Đức làm tổn thương uy thế của Hoàng đế Rôma Thần thánh.[235]

Tu viện Sénanque, Gordes, Pháp.

Trung kỳ Trung Cổ là một thời đại của những phong trào tôn giáo vĩ đại. Bên cạnh những cuộc thập tự chinh và cải cách tu viện, con người tìm cách tham gia vào những dạng thức mới của đời sống tôn giáo. Nhiều dòng tu được thành lập, trong đó có các dòng Citeaux và Chartreux. Dòng Citeaux mở rộng đặc biệt nhanh chóng từ miền Bourgogne trong những năm đầu tiên dưới sự dẫn dắt của thánh Bernard (mất năm 1153). Những dòng tu mới này được thành lập để đáp lại tình cảm của dân chúng rằng tu viện dòng Benedict không còn đáp ứng được nhu cầu của giáo dân, những người cùng với những ước mong bước vào đời sống tôn giáo đều muốn một sự trở lại của đời sống ẩn tu đơn giản hơn của thời Ki-tô sơ khai, hoặc sống một cuộc đời sứ đồ.[199] Các cuộc hành hương tôn giáo cũng được khuyến khích. Những vị trí hành hương cũ như Rôma, Jerusalem, và Compostela thu hút một lượng khách lớn, và các địa điểm mới như Monte GarganoBari cũng trở nên nổi bật.[237]

Trong thế kỉ 13 các dòng tu hành khất-dòng Francis và dòng Dominic- những người tuyên khấn sống đời nghèo khó và kiếm sống bằng cách hành khất, được giáo hoàng chuẩn thuận.[238] Các nhóm tôn giáo như phái Vaudès (Waldo) hay Humiliati cũng cố gắng trở lại đời sống Ki-tô sơ khai trong thế kỉ 12 và đầu thế kỉ 13, nhưng họ bị giáo hoàng kết tội dị giáo. Những người khác gia nhập giáo phái Cathar, một phong trào tôn giáo khác bị quy kết là "Giáo hội của Satan". Năm 1209, một cuộc thập tự chinh được kêu gọi chống những người theo phái này, tức Thập tự chinh Cathar, kết hợp với tòa án dị giáo để dập tắt phong trào.[239]